PHẦN 2 – SINH LÝ HĐTKCC
CHƯƠNG 6 – NGỦ, GIẤC MƠ & THÔI MIÊN
The Pavlov, Ngủ, giấc mơ và thôi miên là những hiện tượng liên quan đến quá trình ức chế diễn ra trong não bộ.
I. GIẤC NGỦ
1. TỔNG QUAN
Con người và các động vật bậc cao hàng ngày nhận không biết bao nhiêu loại kích thích khác nhau xuất hiện từ bên ngoài và bên trong cơ thể, nói cách khác, các tế bào thần kinh trong não bộ bị kích thích liên tục. Do đó, ở chúng nhất định phải xuất hiện quá trình ức chế để tạo điều kiện cho các tế bào thần kinh nghỉ ngơi và hồi phục chức năng. Biểu hiện của dạng ức chế này là thay trạng thái thức bằng trạng thái ngủ. Ngủ là một nhu cầu bắt buộc của cơ thể người và các động vật bậc cao. Chính vì vậy mà con người dành cho giấc ngủ đến 1/3 cuộc sống của mình.
Ngủ được định nghĩa là trạng thái không hoạt động đặc trưng bởi thiếu tương tác với môi trường bên ngoài. Ngủ là tình trạng mất ý thức tạm thời và có thể đánh thức bởi tín hiệu cảm giác hay các kích thích khác, hôn mê là tình trạng mất ý thức mà không thể đánh thức.
Hầu hết các loài động vật có vú và chim đều có các giai đoạn ngủ giống như con người, cho chúng ta biết rằng giấc ngủ là một đặc tính rất cổ xưa của bộ não động vật có xương sống. Tùy thuộc vào cách định nghĩa thế nào là ngủ, có vẻ như ngay cả những động vật không xương sống như ruồi cũng có giai đoạn nghỉ ngơi có thể được mô tả là ngủ. Tại sao chúng ta cần ngủ là một trong những bí ẩn chưa được giải đáp trong sinh lý học thần kinh. Một số giải thích đã được đề xuất bao gồm để bảo tồn năng lượng, tránh những kẻ săn mồi, cho phép cơ thể tự sửa chữa và xử lý ký ức. Một số nghiên cứu mới nhất chỉ ra rằng giấc ngủ rất quan trọng để loại bỏ chất thải ra khỏi dịch não tủy, đặc biệt là một số protein tích tụ trong các bệnh thần kinh thoái hóa như Alzheimer’s.
Các dạng ngủ:
Có một số dạng ngủ khác nhau: ngủ theo chu kỳ ngày đêm, ngủ theo chu kỳ mùa, ngủ do gây mê, ngủ thôi miên và ngủ bệnh lý. Ngủ theo chu kỳ ngày đêm và ngủ theo chu kỳ mùa là ngủ sinh lý, các dạng ngủ còn lại là do tác động không sinh lý lên cơ thể.
- Ngủ theo chu kỳ ngày đêm:
Ở người trưởng thành mỗi ngày chỉ ngủ 1 lần, nhưng ở một số nơi người ta có thể ngủ 2 lần trong ngày (trưa và tối). Trẻ con ngủ nhiều lần trong ngày và được gọi là ngủ đủ pha.
Thời gian ngủ chu kỳ ngày đêm của trẻ sơ sinh là 21 giờ, 6 tháng – 1 năm là 14 giờ, 4 tuổi là 12 giờ, 10 tuổi là 10 giờ, người trưởng thành là 7- 8 giờ mỗi ngày. Khi mất ngủ trong thời gian dài sẽ làm hoạt động tinh thần bị suy giảm, dễ mệt mõi, lầm lẫn, sai sót. Ngủ do thôi miên là một dạng ngủ đặc biệt, trạng thái ức chế gây ra bởi các kích thích yếu, kéo dài và đơn điệu.
- Ngủ theo chu kỳ mùa:
Ngủ theo chu kỳ mùa liên quan đến các phản ứng bảo vệ, nhằm hạn chế hoạt động trong những điều kiện không thuận lợi.
Các động vật ngủ đông chìm vao giấc ngủ khi nhiệt độ môi trường hạ thấp và lúc con vật đã tích trữ đủ lượng mỡ. Ngủ vào mùa hè thường gặp ở các động vât ăn côn trùng, một số loại gặm nhấm vào những thời gian khô hạn trong năm ở các vùng sa mạc hay bán sa mạc.
- Ngủ do gây mê:
Ngủ do gây mê có thể gây ra bằng thở không khí có lẫn ether hay chloroform, bằng các chất được đưa vào cơ thể như rượu, morphin, hay bằng kích thích dòng diện…
- Ngủ bệnh lý:
Ngủ bệnh lý do nhiều nguyên nhân như thiếu máu não, do não bị chèn ép, do các khối u trong các bán cầu đại não hay do tổn thương các cấu trúc khác nhau ở thân não. Ngủ bệnh lý thường kéo dài trong nhiều ngày, nhiều tuần, nhiều tháng hoặc nhiều năm.
- Ngủ thôi miên:
Là dạng ngủ đặc biệt, là ngủ nhân tạo, là trạng thái ức chế được gây ra bởi các kích thích yếu kéo dài, đơn điệu.
2. ĐIỆN NÃO ĐỒ
Điện não đồ là tập hợp những sóng điện não thu nhận được từ những hoạt động điện của tế bào thần kinh ở não. Cường độ và kiểu mẫu của điện não tùy thuộc vào nhiều yếu tố như trạng thái thức hay ngủ, độ tuổi, vị trí gắn điện cực và tình trạng bệnh lý của người được đo.
Điện thế sóng điện não đo được ở hộp sọ thay đổi từ 0 đến 200 mV và tần số thay đổi từ 1 nhịp trong vài giây tới 50 nhịp/giây.
Muốn đo được điện não thì phải có hàng ngàn tế bào thần kinh phát xung cùng một lúc. Cường độ của sóng điện não được xác định bởi số lượng tế bào thần kinh và sợi cùng phát xung một lúc chứ không phảitổng mức hoạt động điện của não.

3. CÁC GIAI ĐOẠN CỦA GIẤC NGỦ
Các giai đoạn của giấc ngủ đã được sửa đổi vào năm 2016 bởi Học viện Y học Giấc ngủ Hoa Kỳ. Mỗi đêm, có hai loại giấc ngủ luân phiên nhau là giấc ngủ sóng chậm (Non-REM) và giấc ngủ cử động mắt nhanh (REM – Rapid Eye Movement).
Phần lớn giấc ngủ mỗi đêm thuộc loại sóng chậm, đây là loại giấc ngủ sâu, yên tĩnh mà người ta trãi qua trong giờ đầu của giấc ngủ.
Giấc ngủ REM có tính chu kỳ thường lặp lại sau 90 phút và chiếm khoảng 25% thời gian ngủ của người trẻ, giấc ngủ này thường không được yên tỉnh và hay kèm theo giấc mơ.
Các giai đoạn của giấc ngủ và sự thay đổi của điện não đồ

Hình bên trái mô tả sóng điện não ở trạng thái tỉnh táo nhiều tế bào thần kinh đang hoạt động nhưng không theo kiểu phối hợp. Điện não đồ của trạng thái tỉnh táo hoàn toàn (mắt mở) cho thấy một hình ảnh điện thế thay đổi nhanh, không đều và không có hình dạng sóng. Ở trạng thái nghỉ ngơi (tỉnh nhưng nhắm mắt), ngủ hoặc ngủ mê, hoạt động điện của các tế bào thần kinh bắt đầu đồng bộ hóa thành các sóng với các hình ảnh đặc trưng. Việc các neuron vỏ não phát ra các sóng điện càng đồng bộ thì biên độ của sóng càng lớn.
- Trạng thái nghỉ ngơi, được gọi là giai đoạn W, được đặc trưng bởi các sóng tần số cao, biên độ thấp. Khi người đó chìm vào giấc ngủ và trạng thái kích thích giảm đi, tần số của các sóng giảm.
- Giấc ngủ non-REM được chia thành các giai đoạn N1, N2 và N3. Giai đoạn N3 giấc ngủ còn được gọi là giấc ngủ sóng chậm hoặc giấc ngủ sâu. Nó được chỉ ra trên điện não đồ bởi sự hiện diện của sóng delta, sóng tần số thấp, biên độ cao, có thời gian dài quét qua vỏ não. Trong giai đoạn này của chu kỳ ngủ, người ngủ điều chỉnh vị trí cơ thể mà không có lệnh chủ động từ não.
- Giấc ngủ REM (giai đoạn R) được đánh dấu bằng mẫu điện não đồ gần với mô hình điện não đồ của người thức, với các sóng tần số cao, biên độ thấp. Trong giấc ngủ REM, hoạt động của não sẽ ức chế các tế bào thần kinh vận động đến các cơ xương, làm chúng tê liệ ngoại trừ cơ di chuyển mắt và các cơ kiểm soát hơi thở. Việc kiểm soát các chức năng cân bằng nội môi bị suy giảm trong giấc ngủ REM và nhiệt độ cơ thể giảm xuống theo nhiệt độ môi trường xung quanh. Giấc ngủ REM là giai đoạn mà hầu hết các giấc mơ diễn ra. Đôi mắt di chuyển sau hàng mi nhắm nghiền, như thể đang theo dõihành động của giấc mơ. Người ngủ có nhiều khả năng thức dậy một cách tự nhiên từ các giai đoạn của giấc ngủ REM.
Hình bên phải mô tả một giấc ngủ tám giờ điển hình bao gồm các chu kỳ lặp lại. Trong giờ đầu tiên, người đó chuyển từ trạng thái tỉnh táo qua các giai đoạn N1 đến N2 và cuối cùng là ngủ sâu (giai đoạn N3; vùng màu xanh lam đầu tiên). Sau đó, người ngủ sẽ chuyển sang chu kỳ giữa giấc ngủ sâu và giấc ngủ REM (giai đoạn R). Gần cuối giai đoạn ngủ 8 giờ, người ngủ dành nhiều thời gian nhất trong giai đoạn N1 và giấc ngủ REM.
- Giấc ngủ sóng chậm (non-REM)
Giấc ngủ này rất yên tĩnh, giảm trương lực cơ của mạch máu ngoại biên và các hoạt động khác, huyết áp, nhịp thở và mức độ chuyển hóa năng lượng giảm từ 10 – 30%.
Mặc dù giấc ngủ sóng chậm thường không có mơ nhưng thật ra đôi khi giấc mơ và ác mộng xảy ra vào giai đoạn này. Tuy nhiên chỉ những giấc mơ trong giấc ngủ REM mới có thể nhớ, nên trong giấc ngủ non-REM quá trình cũng cố giấc mơ vào trí nhớ không xảy ra.
- Giấc ngủ cử động mắt nhanh (REM)
Mỗi đợt kéo dài từ 5 -30 phút, và lặp lại sau khoảng 90 phút.
Khi một người rất buồn ngủ thời gian của mỗi đợt có thể bị rút ngắn lại, ngược lại ở một người nghĩ ngơi suốt buổi tối thì thời gian này kéo dài ra.
Nó thường có các đặc điểm:
- Kèm theo giấc mơ sinh động
- Dễ đánh thức so với giấc ngủ sóng chậm, thường thức dậy vào buổi sáng khi đang trong giấc ngủ này
- Trương lực khắp cơ thể giảm nhiều, mặc dù có sự ức chế cơ ngoại biên nhưng vẫn có thể có vài cử động cơ bất thường
- Nhịp tim và nhịp thở thường không đều, đó là biểu hiện của đang nằm mơ
- Não hoạt động rất mạnh và chuyển hóa năng lượng toàn thể não bộ tăng lên 20%, điện não đồ xuất hiện sóng beta giống như đang thức, nên gọi là giấc ngủ nghịch thường.
II. GIẤC MƠ
Giấc mơ là một trạng thái ý thức đặc biệt, xuất hiện khi ngủ, đăc trưng bằng các hình ảnh, cảm giác tương đối rõ ràng. Mơ là kết quả của sự hưng phấn tạm thời các cấu trúc thần kinh khác nhau trong não khi ngủ, tái hiện không toàn diện các dấu vết mà tế bào thần kinh não đã tiếp nhận được trong lúc thức tỉnh.
Sự giải phóng ức chế và trạng thái hoạt động của các tế bào thần kinh trong não trong thời gian ngủ thường được gây ra bởi các kích thích khác nhau từ môi trường bên ngoài, cũng như bên trong cơ thể. Giấc mơ cso thể phát sinh dưới ảnh hưởng của các kích thích bên ngoài (ánh sáng, âm thanh, mùi, nhiệt, kích thích cơ học và da), hoặc từ bên trong (khát, đói, sự biến động huyết áp, dạ dày đầy hơi, bàng quang đầy nước tiểu, bệnh lý cơ thể).
Cần chú ý thêm một tính chất đặc biệt của các cảm giác phát sinh trong lúc ngủ do tác động của các kích thích khác nhau, đó là tính rất nhạy cảm của các tế bào thần kinh đối với các kích thích yếu trong điều kiện võ não bị ức chế hoàn toàn. Do đó, khi ngủ thường xuất hiện các cảm giác đối với tác dụng của các kích thích yếu, mà ở trạng thái thức tỉnh chúng không thể gây ra một cảm giác nào.
- nghĩa của những giấc mơ khác nhau tùy theo các nền văn hóa và thời kỳ khác nhau. Vào cuối thế kỷ 19, Sigmund Freud đã tin chắc rằng giấc mơ là cơ hội để tiếp cận với vô thức. Bằng cách phân tích những giấc mơ, Freud nghĩ rằng mọi người có thể nâng cao nhận thức về bản thân và có được cái nhìn sâu sắc có giá trị để giúp họ giải quyết những vấn đề họ gặp phải trong cuộc sống. Freud đã phân biệt giữa nội dung biểu hiện và nội dung tiềm ẩn của những giấc mơ. Nội dung rõ ràng nhất là nội dung thực tế hoặc cốt truyện của một giấc mơ. Mặt khác, nội dung tiềm ẩn đề cập đến ý nghĩa tiềm ẩn của một giấc mơ. Ví dụ, nếu một người phụ nữ mơ thấy mình bị rắn đuổi, Freud có thể lập luận rằng điều này thể hiện sự sợ hãi của người phụ nữ về sự gần gũi tình dục, với con rắn là biểu tượng cho dương vật của đàn ông.
Carl Jung tin rằng những giấc mơ cho phép chúng ta tiếp cận với vô thức tập thể (là một kho lưu trữ thông tin mà ông tin là được chia sẻ bởi mọi người). Theo Jung, một số biểu tượng trong giấc mơ phản ánh các nguyên mẫu phổ quát với ý nghĩa tương tự đối với tất cả mọi người bất kể văn hóa hay địa điểm.
Tuy nhiên, nhà nghiên cứu về giấc ngủ và giấc mơ Rosalind Cartwright tin rằng giấc mơ chỉ phản ánh những sự kiện quan trọng trong cuộc sống đối với người mơ. Không giống như Freud và Jung, Cartwright đã công bố một nghiên cứu vào năm 2006, trong đó những phụ nữ sắp ly hôn được phỏng vấn nhiều lần trong khoảng thời gian khoảng 5 tháng để báo cáo mức độ mà người bạn đời cũ trong tâm trí họ. Họ được đánh thức trong giấc ngủ REM để cung cấp thông tin chi tiết về nội dung giấc mơ của họ. Có một mối tương quan tích cực đáng kể giữa mức độ mà phụ nữ nghĩ về người bạn đời cũ của họ trong giờ thức giấc và số lần người bạn đời cũ của họ xuất hiện như những nhân vật trong giấc mơ của họ
Trong nghiên cứu gần đây (Horikawa, Tamaki, Miyawaki, & Kamitani, 2013) đã phát hiện ra các kỹ thuật mới nhờ đó các nhà nghiên cứu có thể phát hiện và phân loại hiệu quả các hình ảnh thị giác xảy ra trong khi mơ bằng cách sử dụng fMRI để đo lường mô hình hoạt động của não, mở đường cho các nghiên cứu bổ sung trong khu vực này.
Alan Hobson, một nhà thần kinh học, được ghi nhận là người đã phát triển lý thuyết “kích hoạt-tổng hợp” của giấc mơ. Các phiên bản ban đầu của lý thuyết này đề xuất rằng giấc mơ không phải là sự thể hiện có ý nghĩa của cảm giác lo lắng do Freud và những người khác đề xuất, mà là kết quả của việc bộ não của chúng ta cố gắng hiểu (“tổng hợp”) hoạt động thần kinh (“kích hoạt”) mà đã xảy ra trong giấc ngủ REM. Những điều chỉnh gần đây tiếp tục ủng hộ cho lý thuyết này dựa trên bằng chứng. Hobson (2009) gợi ý rằng giấc mơ có thể đại diện cho trạng thái tiền ý thức, nói cách khác, giấc mơ liên quan đến việc xây dựng một thực tế ảo trong đầu mà chúng ta có thể sử dụng để hỗ trợ mình khi tỉnh táo. Trong số nhiều bằng chứng sinh học thần kinh, John Hobson trích dẫn nghiên cứu về những giấc mơ sáng suốt (lucid dream) như một cơ hội để hiểu rõ hơn về giấc mơ nói chung. Giấc mơ sáng suốt là giấc mơ trong đó một số khía cạnh của sự tỉnh táo được duy trì trong trạng thái mơ. Trong một giấc mơ sáng suốt, một người nhận thức được thực tế là họ đang mơ, và như vậy, họ có thể kiểm soát nội dung của giấc mơ (LaBerge, 1990).
III. THÔI MIÊN
Thôi miên là dạng ngủ đặc biệt, là ngủ một phần được gây ra bằng nhân tạo, trong đó ức chế không bao trùm lên toàn bộ các bán cầu đại não và vỏ não, trong não vẫn còn những điểm hưng phấn.
Giấc ngủ và thôi miên đều phát sinh trong những điều kiện hoàn toàn giống nhau. Ngủ phát sinh khi có tác dụng của các kích thích yếu hoặc đều đều, lặp lại và kéo dài. Thôi miên cũng được gây ra bằng cách như vậy.
Biểu hiện bên ngoài của thôi miên gồm 3 giai đoạn:
- Buồn ngủ: ngồi yên, mi mắt nặng nhưng vẫn giữ được liên hệ với xung quanh.
- Thiu thiu ngủ: giữa nguyên tư thế trong thời gian dài
- Miên hành: chỉ phản ứng lại tiếng nói của người thôi miên.
Thường sự phát triển của trạng thái thôi miên được duy trì ở giai đoạn thứ ba. Trong lúc thôi miên có thể chuyển sang giấc ngủ sinh lý bình thường
Thôi miên là một trạng thái tập trung và chú ý vào bản thân. Trong môi trường trị liệu, bác sĩ lâm sàng có thể sử dụng phương pháp thư giãn và gợi ý nhằm cố gắng thay đổi suy nghĩ và nhận thức của bệnh nhân.
Thôi miên cũng đã được sử dụng để rút ra thông tin được cho là đã chôn sâu trong ký ức tùy vào khả năng gợi ý, thôi miên có thể chứng minh là một kỹ thuật rất hiệu quả và các nghiên cứu về hình ảnh não đã chứng minh rằng trạng thái thôi miên có liên quan đến những thay đổi trong hoạt động của não (Del Casale và cộng sự, 2012; Guldenmund, Vanhaudenhuyse, Boly, Laureys, & Soddu, 2012).
Các cá nhân trải qua thôi miên thường có những ký ức rõ ràng về trải nghiệm thôi miên và kiểm soát được hành vi của chính họ. Mặc dù thôi miên có thể hữu ích trong việc tăng cường trí nhớ hoặc một kỹ năng, nhưng những cải tiến đó về bản chất là rất khiêm tốn (Raz, 2011).
Về mặt lịch sử, thôi miên đã bị nghi ngờ bởi cách miêu tả của nó trong các phương tiện truyền thông và giải trí phổ biến, do đó, điều quan trọng là phải phân biệt giữa thôi miên như một phương pháp trị liệu dựa trên kinh nghiệm với một hình thức giải trí.
Chính xác thì làm thế nào để đưa người tham gia vào trạng thái thôi miên?
Có bốn yếu tố cần thiết để đưa người tham gia vào trạng thái liên quan đến thôi miên, bao gồm:
- Người tham gia được hướng dẫn tập trung vào một thứ, chẳng hạn như lời nói của người thôi miên hoặc đồng hồ tích tắc.
- Người tham gia cảm thấy thoải mái và được hướng dẫn để thư giãn và buồn ngủ.
- Người tham gia được yêu cầu cởi mở với quá trình thôi miên, tin tưởng nhà thôi miên và buông bỏ mọi suy nghĩ nghi ngờ
- Người tham gia được khuyến khích sử dụng trí tưởng tượng của họ.
Mọi người khác nhau về khả năng bị thôi miên, nhưng đánh giá về nghiên cứu hiện có cho thấy rằng hầu hết mọi người ít nhất đều có khả năng bị thôi miên ở mức độ vừa phải (Kihlstrom, 2013). Thôi miên kết hợp với các kỹ thuật khác được sử dụng cho nhiều mục đích trị liệu khác nhau và ít nhất đã được chứng minh là có hiệu quả phần nào trong việc kiểm soát cơn đau, điều trị trầm cảm và lo lắng, cai thuốc lá và giảm cân (Alladin, 2012; Elkins, Johnson, & Fisher , 2012; Golden, 2012; Montgomery, Schnur, & Kravits, 2012).
Theo quan điểm phân ly, thôi miên thực sự là một trạng thái ý thức phân ly, giống như khi bạn chạy xe nhưng bạn chỉ nhận thức được rất ít về quá trình lái xe vì sự chú ý của bạn tập trung vào nơi khác. Lý thuyết này được hỗ trợ bởi nghiên cứu của Ernest Hilgard về thôi miên và đau đớn. Trong các thí nghiệm của Hilgard, ông đưa những người tham gia rơi vào trạng thái thôi miên và đặt cánh tay của họ vào nước đá. Những người tham gia được thông báo rằng họ sẽ không cảm thấy đau, nhưng họ có thể nhấn một nút nếu họ cảm thấy đau; trong khi họ nói là không cảm thấy đau, nhưng trên thực tế họ đã nhấn nút, điều này gợi ý về sự phân ly ý thức khi ở trạng thái thôi miên (Hilgard & Hilgard, 1994).
Lý thuyết thôi miên nhận thức xã hội coi những người ở trạng thái thôi miên đang thực hiện vai trò xã hội, hành vi của mọi người có thể được hình thành bởi những kỳ vọng của họ về cách họ nên hành động trong một tình huống nhất định. Một số người xem hành vi của một người bị thôi miên không phải là một trạng thái ý thức bị thay đổi hoặc phân ly, mà là sự đáp ứng những kỳ vọng của xã hội đối với vai trò đó (Coe, 2009; Coe & Sarbin, 1966)
IV. RỐI LOẠN GIẤC NGỦ
Rối loạn giấc ngủ tương đối phổ biến, một lúc nào đó trong cuộc đời bạn sẽ có lúc ngủ không yên giấc. Rối loạn giấc ngủ phổ biến nhất là mất ngủ, và các nhóm rối loạn liên quan tới những trãi nghiệm không mong muốn hoặc rối loạn hành vi trong khi ngủ (giai đoạn REM và non-REM) như là mộng du, hội chứng chân không yên và hội chứng hoảng sợ khi ngủ.
1. MẤT NGỦ
Mất ngủ là tình trạng khó đi vào giấc ngủ hoặc duy trì giấc ngủ liên tục, là chứng rối loạn giấc ngủ phổ biến nhất. Những người bị chứng mất ngủ thường trải qua khoảng thời gian dài giữa thời gian họ “đi ngủ” và thực sự chìm vào giấc ngủ. Ngoài ra, những cá nhân này có thể thức dậy nhiều lần trong đêm.
Một trong những tiêu chí của chứng mất ngủ liên quan đến việc trải qua các triệu chứng này ít nhất ba đêm một tuần trong thời gian ít nhất một tháng. Những người bị mất ngủ trải qua mức độ lo âu ngày càng tăng về việc không thể ngủ được, lo lắng gia tăng dẫn đến tăng kích thích và mức độ kích thích cao hơn khiến khả năng đi vào giấc ngủ càng khó xảy ra hơn.
Mất ngủ mãn tính hầu như luôn đi kèm với cảm giác quá mệt mỏi và có thể liên quan đến các triệu chứng trầm cảm. Có thể có nhiều yếu tố góp phần gây ra chứng mất ngủ, bao gồm tuổi tác, sử dụng thuốc, tập thể dục, trạng thái tinh thần và thói quen đi ngủ. Việc điều trị chứng mất ngủ có thể thực hiện theo một số cách tiếp cận khác nhau. Những người bị mất ngủ có thể hạn chế sử dụng chất kích thích (chẳng hạn như caffein) hoặc tăng cường tập thể dục trong ngày. Một số người có thể chuyển sang dùng thuốc ngủ, nhưng điều này nên được thực hiện một cách thận trọng vì nhiều loại thuốc ngủ dẫn đến sự phụ thuộc và thay đổi bản chất của chu kỳ giấc ngủ, đồng thời có thể làm tăng chứng mất ngủ. Một số hình thức trị liệu tâm lý có thể giúp những người bị mất ngủ chẳng hạn như liệu pháp nhận thức hành vi, các kỹ thuật quản lý căng thẳng và thay đổi các hành vi có vấn đề có thể góp phần gây ra chứng mất ngủ.
2. MỘNG DU
Mộng du là một chứng rối loạn hành vi khi ngủ, người ngủ tham gia vào các hành vi tương đối phức tạp, từ đi lang thang đến lái ô tô, Trong các giai đoạn mộng du, có thể kéo dài từ 30 giây đến 30 phút, mắt của đối tượng mở và ghi nhận môi trường xung quanh nhưng họ không phản ứng với những nỗ lực giao tiếp với họ. Đối tượng có thể tránh va chạm vào đồ vật, có thể đi cầu thang, và trong một số trường hợp được báo cáo là thực hiện các công việc như chuẩn bị thức ăn hoặc gấp quần áo. Đối tượng thường không thể nhớ lại giai đoạn mộng du khi thức dậy.
Trong một thời gian dài mộng du được cho là biểu hiện của những hành động trong lúc mơ.Tuy nhiên, hầu hết các giấc mơ xảy ra trong giấc ngủ REM (giai đoạn 1), trong khi mộng du thường diễn ra trong giấc ngủ sâu (giai đoạn 4).
Mộng du phổ biến nhất ở trẻ em và tần suất các cơn giảm dần theo độ tuổi. Ngoài ra còn có một thành phần di truyền, vì xu hướng mộng du xuất hiện trong các gia đình.
3. RỐI LOẠN HÀNH VI GIẤC NGỦ REM (RBD)
Rối loạn hành vi trong giấc ngủ REM (REM Sleep Behavior Disorder – RBD) xảy ra khi tình trạng cơ liên quan đến giai đoạn giấc ngủ REM không bị ức chế tê liệt. Những người bị RBD có mức độ hoạt động thể chất cao trong giấc ngủ REM, đặc biệt là ác mộng. Những hành vi này rất khác nhau, nhưng chúng có thể bao gồm đá, đấm, cào cấu, la hét và cư xử như một con vật đang sợ hãi hoặc bị tấn công. Những người mắc chứng rối loạn này có thể gây thương tích cho bản thân hoặc bạn cùng giường.
Hơn nữa, những loại rối loạn hành vi này sẽ làm gián đoạn giấc ngủ, mặc dù những người bị ảnh hưởng không có ký ức về những hành vi này đã xảy ra (Arnulf, 2012). Rối loạn này có liên quan đến một số bệnh thoái hóa thần kinh như bệnh Parkinson. Trên thực tế, mối quan hệ này mạnh mẽ đến mức một số người coi sự hiện diện của RBD như một công cụ hỗ trợ tiềm năng trong chẩn đoán và điều trị một số bệnh thoái hóa thần kinh (Ferini-Strambi, 2011).
Clonazepam, một loại thuốc chống lo âu có đặc tính an thần, thường được sử dụng để điều trị RBD. Nó được dùng một mình hoặc kết hợp với liều melatonin (hormone do tuyến tùng tiết ra). Là một phần của điều trị, môi trường ngủ thường được thay đổi để trở thành nơi an toàn hơn cho những người bị RBD (Zangini, CalandraBuonaura, Grimaldi, & Cortelli, 2011).
4. HỘI CHỨNG CHÂN KHÔNG YÊN
Một người mắc hội chứng chân không yên có cảm giác khó chịu ở chân trong thời gian không hoạt động hoặc khi cố gắng chìm vào giấc ngủ. Sự khó chịu này được giảm bớt bằng cách cố ý cử động chân, điều này góp phần gây khó đi vào giấc ngủ hoặc khó ngủ.
Hội chứng chân không yên khá phổ biến và có liên quan đến một số chẩn đoán bệnh lý khác, như bệnh thận mãn tính và bệnh tiểu đường (Mahowald & Schenck, 2000).
Có nhiều loại thuốc điều trị hội chứng chân không yên: thuốc benzodiazepin, thuốc phiện và thuốc chống co giật…
5. CHỨNG HOẢNG SỢ KHI NGỦ
Chứng hoảng sợ khi ngủ dẫn đến cảm giác hoảng sợ ở người mắc bệnh, thường đi kèm với tiếng la hét và cố gắng trốn thoát khỏi môi trường xung quanh (Mahowald & Schenck, 2000).
Mặc dù những người mắc chứng kinh hoàng ban đêm dường như tỉnh táo, nhưng nhìn chung họ không có ký ức về những sự kiện đã xảy ra và những nỗ lực an ủi họ đều không hiệu quả. Thông thường, họ sẽ ngủ lại trong một thời gian ngắn.
Chứng hoảng sợ khi ngủ dường như xảy ra trong giai đoạn giấc ngủ non-REM (Provini, Tinuper, Bisulli, & Lagaresi, 2011).
Nói chung, điều trị chứng sợ hãi ban đêm là không cần thiết trừ khi có một số tình trạng bệnh lý hoặc tâm lý tiềm ẩn góp phần gây ra chứng sợ hãi ban đêm.
6. CHỨNG NGƯNG THỞ LÚC NGỦ
Ngưng thở khi ngủ có thể kéo dài 10 – 20 giây hoặc lâu hơn và thường đi kèm với các giai đoạn kích thích ngắn. Mặc dù những người mắc chứng ngưng thở khi ngủ có thể không nhận thức được những gián đoạn lặp đi lặp lại này trong giấc ngủ, nhưng họ cảm thấy mức độ mệt mỏi ngày càng tăng. Nhiều người được chẩn đoán mắc chứng ngưng thở khi ngủ tìm cách điều trị vì họ ngáy to và/hoặc ngừng thở trong thời gian dài khi ngủ (Henry & Rosenthal, 2013).
Ngưng thở khi ngủ phổ biến hơn nhiều ở những người thừa cân và thường liên quan đến tiếng ngáy to. Đáng ngạc nhiên là chứng ngưng thở khi ngủ có thể làm trầm trọng thêm bệnh tim mạch (Sánchez-de-la-Torre, Campos-Rodriguez, & Barbé, 2012). Mặc dù chứng ngưng thở khi ngủ ít phổ biến hơn ở những người gầy, nhưng bất kỳ ai, bất kể cân nặng của họ, người ngáy to hoặc thở hổn hển khi ngủ, đều nên được kiểm tra chứng ngưng thở khi ngủ.
Có hai loại ngưng thở khi ngủ: ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn và ngưng thở khi ngủ do thần kinh trung ương. Chứng ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn xảy ra khi đường thở của một người bị tắc nghẽn trong khi ngủ và không khí bị ngăn không cho vào phổi. Trong chứng ngưng thở khi ngủ trung ương, sự gián đoạn tín hiệu được gửi từ não điều chỉnh hơi thở gây ra nhữngkhoảng thời gian thở bị gián đoạn (White, 2005).
7. CHỨNG NGỦ RŨ
Người mắc chứng ngủ rũ không thể cưỡng lại việc rơi vào giấc ngủ vào những thời điểm không thích hợp. Những cơn buồn ngủ này thường liên quan đến chứng tình trạng thiếu trương lực cơ hoặc yếu cơ, và trong một số trường hợp liên quan đến tình trạng tê liệt hoàn toàn các cơ chủ động. Điều này tương tự như tình trạng tê liệt mà những người khỏe mạnh trải qua trong giấc ngủ REM (Burgess & Scammell, 2012; Hishikawa & Shimizu, 1995; Luppi và cộng sự, 2011). Ngủ rũ thường được kích hoạt bởi các trạng thái kích thích hoặc căng thẳng cao độ, sau khi tỉnh dậy sau cơn mê, mọi người cảm thấy sảng khoái (Chokroverty, 2010).
Ngủ rũ thường xuyên có thể ảnh hưởng tới công việc, học tập và có thể nguy hiểm khi đang lái xe, vận hành máy móc…
Chứng ngủ rũ được điều trị bằng thuốc kích thích tâm thần vận động, chẳng hạn như amphetamine (Mignot, 2012). Những loại thuốc này thúc đẩy tăng mức độ hoạt động thần kinh. Có rất nhiều sự khác biệt giữa những người mắc bệnh, cả về cách các triệu chứng của chứng ngủ rũ biểu hiện và hiệu quả của các lựa chọn điều trị hiện có.