PHẦN 2 – SINH LÝ HOẠT ĐỘNG THẦN KINH CẤP CAO
CHƯƠNG 10 – HỌC TẬP VÀ TRÍ NHỚ
I. TỔNG QUAN
Trong nhiều năm, ý nghĩ, sự thức tỉnh, học tập và trí nhớ (tất cả đều là các khía cạnh của trạng thái nhận thức) được coi là thuộc lĩnh vực tâm lý học hơn là sinh học. Các nhà sinh học thần kinh trong nhiều thập kỷ trước đã quan tâm nhiều hơn đến mạng lưới thần kinh và chức năng tế bào thần kinh. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, hai lĩnh vực này ngày càng chồng chéo lên nhau. Các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng cơ sở cơ bản cho chức năng nhận thức dường như có thể giải thích được ở cấp độ tế bào, nhất là cơ chế của sự biến đổi trong thời gian dài. Khả năng thay đổi để đáp ứng của tế bào thần kinh hoặc thay đổi kết nối của chúng đáp ứng với kích thích là nền móng của hai quá trình nhận thức là học và ghi nhớ.
Ý nghĩ là kết quả của việc kích thích nhiều phần khác nhau của hệ thần kinh cùng một lúc, và theo một trình tự nhất định, gồm vỏ não, đồi thị, hệ viền và cấu trúc lưới ở phía trên thân não. Các vùng hệ viền, đồi thị và cấu trúc lưới được kích thích để xác định đặc tính tổng quát của ý nghĩ, cho biết tính chất như là vui thích, không vui thích, đau, thoải mái, những mẫu thô sơ của cảm giác, định vị cho những vùng lớn của cơ thể và những đặc tính tổng quát khác. Mặt khác, vùng vỏ não được kích thích, xác định những tính chất riêng biệt của ý nghĩ như là định vị chuyên biệt cảm giác trên thân thể, và những vật trong tầm nhìn, những mẫu hình cảm giác riêng biệt như là cấu trúc của một tấm thảm và những đặc tính đặc biệt khác.
Sự thức tỉnh có thể được mô tả như là sự nhận thức liên tục môi trường xung quanh, hay những ý nghĩ kế tiếp nhau.
Học tập là một cơ chế thần kinh qua đó cá nhân thay đổi hành vi, do kết quả của kinh nghiệm đã trải qua.
Có nhiều hình thức học: sự quen thuộc (phản xạ có điều kiện), sự luyện tập (Thao tác – Sử dụng công cụ), thử nghiệm và sai lầm (phản xạ vận động tìm thức ăn).
II. HỌC TẬP LÀ SỰ TIẾP THU KIẾN THỨC
Làm thế nào để bạn biết là bạn đã học được điều gì đó?
Việc học có thể được thể hiện bằng những thay đổi về hành vi, nhưng những thay đổi về hành vi không bắt buộc để việc học diễn ra.
Việc học có thể được nội tâm hóa và không phải lúc nào cũng được phản ánh bằng hành vi công khai trong khi quá trình học đang diễn ra. Không ai thấy bạn đọc sách hoặc đang nghe giảng mà có thể biết bạn đã học được điều gì.
Học tập có thể được phân thành hai loại lớn: liên kết và không liên kết.
1. HỌC TẬP LIÊN KẾT
Học tập liên kết xảy ra khi có sự liên hệ giữa những yếu tố kích thích. Có 2 loại:
- Loại có điều kiện cổ điển (sự quen thuộc): gồm sự phối hợp theo thời gian giữa một kích thích có điều kiện và một kích thích không điều kiện gây ra một đáp ứng không cần phải học, khi sự phối hợp giữa hai kích thích này được lặp lại nhiều lần thì tới một lúc nào đó kích thích có điều kiện một mình nó có thể gây ra đáp ứng không điều kiện. Chẳng hạn như thí nghiệm kinh điển của Pavlov, trong đó ông đồng thời cho chó ăn và rung chuông. Sau một khoảng thời gian, những con chó bắt đầu liên kết âm thanh của chuông với thức ăn và bắt đầu tiết nước bọt để chờ thức ăn bất cứ khi nào chuông được rung. Một hình thức học tập kết hợp khác xảy ra khi một con vật liên kết tác nhân kích thích với một hành vi nhất định. Ví dụ là một con chuột bị sốc điện mỗi khi nó chạm vào một bộ phận nào đó trong lồng. Nó sớm liên kết phần đó của lồng với một trải nghiệm khó chịu và tránh khu vực đó.
- Loại có điều kiện được cũng cố bởi một tác nhân thưởng hay phạt khiến cho đáp ứng với kích thích có thể thay đổi. Tác nhân củng cố dương tính làm cho khả năng đáp ứng tăng lên, như cho một con các heo ăn cá sau khi nó nhảy qua một cái vòng, con vật sẽ có khuynh hướng lặp lại hành vi để được thưởng. Tác nhân củng cố âm tính như phạt làm khả năng đáp ứng giảm xuống
TRUNG TÂM THƯỞNG
Một cần điều khiển được đặt sao cho khi ấn cần thì dòng điện sẽ chạy vào điện cực kích thích lần lượt đặt tại nhiều vị trí khác nhau ở não.
Người ta nhận thấy có những vị trí khi kích thích, con vật sẽ cảm thấy thích thú được thưởng, con khỉ sẽ ấn cần mãi có khi đến hàng ngàn lần/giờ.
Hơn nữa, khi được đề nghị lựa chọn ăn một số thức ăn ngon thay vì cơ hội để kích thích trung tâm phần thưởng, con vật thường chọn kích thích điện.
Thí nghiệm này phát hiện ra các trung tâm thưởng quan trọng nằm dọc theo bó não trước giữa, đặc biệt là nhân bên và nhân bụng giữa của vùng dưới đồi. Những trung tâm thưởng khác ít quan trọng hơn có lẽ là trung tâm thứ phát. Khi các vùng thưởng được kích thích con vật thường thấy bình thản, thuần thục và dễ bảo.
TRUNG TÂM PHẠT VÀ SỰ GIẬN DỮ
Cũng trong thí nghiệm trên nhưng được thay đổi sao cho khi con khỉ ấn cần thì dòng điện đang truyền tới vùng trung tâm thưởng bị ngắt, trong trường hợp này con khỉ sẽ không ấn cần điều khiển nữa.
Nhưng khi kết nối điện cực vào vùng não khác gây khó chịu, đau đớn, hoảng sợ thì con khỉ sẽ học cách ấn cần để ngắt dòng điện.
Những trung tâm phạt quan trọng được tìm thấy ở vùng xám trung tâm chung quanh kênh Sylvius ở não giữa, trung tâm phạt nhẹ hơn được tìm thấy ở phức hợp hạnh nhân và hồi hải mã.
Khi kích thích trung tâm phạt sẽ ức chế hoàn toàn trung tâm thưởng chứng tỏ hiện tượng phạt và sợ quan trọng hơn hiện thượng thưởng và thoải mái.
THƯỞNG – PHẠT TRONG HÀNH VI
Hầu hết những gì ta làm đều liên quan tới thưởng hay phạt, “cây gậy và củ cà rốt”.
Nếu chúng ta làm được điều gì mà được thưởng chúng ta sẽ tiếp tục làm và nếu bị phạt thì sẽ ngưng làm, cho nên trung khu thưởng-phạt đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa các hành vi, động cơ hành động và biểu hiện cảm xúc.
Nhiều thí nghiệm cho thấy những cảm giác nào không liên quan tới thưởng hay phạt thì con vật hầu như không nhớ gì cả.
2. HỌC TẬP KHÔNG LIÊN KẾT
Học không liên kết là sự học không cần tùy thuộc vào liên hệ đặc biệt giữa những điều phải học với vài kích thích khác, là một sự thay đổi trong hành vi diễn ra sau khi tiếp xúc nhiều lần với một kích thích duy nhất (tự diễn tiến, tự chuyển hóa).
Loại hình học tập này bao gồm thói quen và sự nhạy cảm, hai hành vi thích ứng cho phép chúng ta lọc ra và bỏ qua các kích thích cơ bản trong khi phản ứng nhạy bén hơn với các kích thích có khả năng gây rối loạn. Sự quen thuộc do một kích thích lặp đi lặp lại không quan trọng sẽ gây ra một đáp ứng giảm đi dần dần, và sự nhạy cảm hóa do một kích thích mạnh và đe dọa, đáp ứng tăng dần để thoát khỏi kích thích này khi nó lặp lại
Trong môi trường sống, một con vật có biểu hiện giảm phản ứng với một kích thích không liên quan được lặp đi lặp lại. Ví dụ, một tiếng động lớn đột ngột có thể khiến bạn giật mình, nhưng nếu tiếng ồn đó lặp đi lặp lại, não của bạn sẽ bắt đầu bỏ qua nó. Những phản ứng theo thói quen cho phép chúng ta lọc ra những kích thích mà chúng ta đã đánh giá và nhận thấy là không đáng kể.
Sự nhạy cảm đối lập với môi trường sống giúp tăng cơ hội sống sót của một sinh vật. Trong quá trình học nhạy cảm, việc tiếp xúc với một kích thích độc hại hoặc cường độ cao gây ra phản ứng tăng cường khi tiếp xúc sau đó. Ví dụ, những người bị ốm trong khi ăn một loại thực phẩm nào đó có thể thấy rằng họ không còn muốn ăn lại thức ăn đó. Sự nhạy cảm có tính thích nghi vì nó giúp chúng ta tránh được những kích thích có hại. Đồng thời, sự nhạy cảm có thể không tốt nếu nó dẫn đến trạng thái rối loạn căng thẳng sau tổn thương.
III. TRÍ NHỚ LÀ KHẢ NĂNG LƯU GIỮ VÀ NHỚ LẠI THÔNG TIN
Trí nhớ liên quan tới cơ chế lưu trữ những gì đã học tập được. Trí nhớ có được do sự thay đổi khả năng dẫn truyền qua synapse của một tế bào thần kinh này qua một tế bào thần kinh khác, là kết quả của hoạt động thần kinh trước đó, sau đó có sự thành lập những đường mới hay đường hỗ trợ để truyền các tín hiệu thần kinh qua những vòng thần kinh ở não, các đường thần kinh mới này gọi là dấu vết trí nhớ, một khi được thành lập có thể được hoạt hóa bằng cách nghĩ để tái sản xuất ra trí nhớ.
Các thí nghiệm ở động vật cấp thấp đã chứng tỏ rằng dấu vết trí nhớ có thể được thành lập ở nhiều mức độ của hệ thần kinh, nhưng phần lớn dấu vết trí nhớ có liên quan tới hoạt động trí óc, thường thành lập ở vỏ não.
- Trí nhớ âm tính hay sự quen thuộc của dẫn truyền thần kinh qua synapse: bộ não có khả năng đặc biệt để học cách không để ý tới các thông tin mà không gây hậu quả bằng cách ức chế đường dẫn truyền thần kinh qua synapse của loại thông tin này, tạo ra hiệu quả là sự quen thuộc, nhờ vậy não bộ không bị tràn ngập bởi các thông tin luôn luôn có .
- Trí nhớ dương tính hay sự nhạy cảm của trí nhớ: bộ não có khả năng tự động tăng cường và dự trữ các dấu vết trí nhớ có liên quan đến các thông tin gây ra những hậu quả quan trọng như là đau đớn hay hài lòng, bằng cách hỗ trợ các đường dẫn truyền qua synapse.
Trí nhớ là một chức năng rất phức tạp, các nhà khoa học đã cố gắng phân loại nó theo nhiều cách khác nhau. Có 3 loại trí nhớ: trí nhớ ngắn hạn chỉ tồn tại vài giây hoặc vài phút trừ phi được chuyển thành trí nhớ dài hạn, trí nhớ trung hạn kéo dài vài ngày hoặc vài tuần nhưng cuối cùng cũng mất đi, trí nhớ dài hạn kéo dài nhiều năm hoặc có khi cả đời. Hoặc cũng có thể chia thành trí nhớ phản xạ và khai báo.
Quá trình xử lý các loại bộ nhớ khác nhau dường như diễn ra thông qua các con đường khác nhau. Với các kỹ thuật hình ảnh không xâm lấn như cộng hưởng từ chức năng (fMRI) và chụp cắt lớp phóng xạ PET, các nhà nghiên cứu đã có thể theo dõi hoạt động của não khi các cá nhân được học cách thực hiện các nhiệm vụ
Ký ức được lưu trữ trên khắp vỏ não theo các con đường được gọi là dấu vết ký ức, một số thành phần của ký ức được lưu trữ trong các giác quan nơi chúng được xử lý. Ví dụ, hình ảnh được lưu trữ trong vỏ não thị giác và âm thanh trong vỏ não thính giác.
Học một nhiệm vụ hoặc nhớ lại một nhiệm vụ đã học có thể liên quan đến nhiều mạng lưới thần kinh hoạt động song song. Quá trình xử lý song song này giúp cung cấp dự phòng trong trường hợp một trong các mạng lưới bị hỏng. Nó cũng được cho là phương tiện mà các ký ức cụ thể được khái quát hóa, cho phép thông tin mới được so khớp với thông tin đã lưu trữ. Ví dụ, một người chưa bao giờ nhìn thấy một quả bóng chuyền, khi nhìn thấy quả bóng chuyền sẽ sẽ nhận ra nó là một quả bóng mà không biết nó dùng trong trường hợp nào, vì quả bóng chuyền có đặc điểm chung giống như tất cả các quả bóng khác mà người đó đã nhìn thấy.
Ở người, hồi hải mã dường như là một cấu trúc quan trọng trong cả học tập và trí nhớ, vì hồi hải mã là nơi quan trọng nhất của hệ viền từ đó có mối liên kết với trung tâm thưởng – phạt. Những bệnh nhân bị cắt bỏ một phần của hồi hải mã để điều trị bệnh động kinh gặp khó khăn khi ghi nhớ thông tin mới. Khi được đưa ra một danh sách các từ cần lặp lại, chúng ta có thể nhớ các từ đó miễn là vẫn tập trung vào nhiệm vụ. Tuy nhiên, nếu bị phân tâm, trí nhớ của các từ sẽ biến mất và sẽ phải học lại danh sách. Thông tin được lưu trữ trong bộ nhớ dài hạn trước khi phẫu thuật không bị ảnh hưởng. Không có khả năng ghi nhớ thông tin mới là một khiếm khuyết được gọi là chứng hay quên.
Bộ nhớ có nhiều cấp độ lưu trữ và ngân hàng bộ nhớ của chúng ta liên tục thay đổi. Khi một kích thích đi vào thần kinh trung ương, đầu tiên nó sẽ đi vào trí nhớ ngắn hạn, một vùng lưu trữ hạn chế chỉ có thể chứa khoảng 7 đến 12 mẩu thông tin cùng một lúc. Các mục trong trí nhớ ngắn hạn sẽ biến mất trừ khi có nỗ lực, chẳng hạn như lặp lại, để đưa chúng vào một dạng lâu dài hơn.
Bốn dạng trí nhớ: Vận động, hình tượng, ngôn từ – logic, cảm xúc
1. TRÍ NHỚ NGẮN HẠN
Có giả thuyết cho rằng trí nhớ ngắn hạn do hoạt động thần kinh liên tục gây ra bởi tín hiệu đi vòng vòng trong dấu vết trí nhờ nhất thời, qua một vòng tế bào thần kinh có đặc tính dội lại nhưng chưa chứng minh được. Giả thuyết khác cho rằng do sự hỗ trợ hay ức chế trước synapse, chất dẫn truyền từ các đầu tận cùng thần kinh gây ra sự hỗ trợ hay ức chế kéo dài tùy theo chất, kéo dài vài giây hoặc vài phút tạo ra trí nhớ ngắn hạn.
Trí nhớ làm việc là một dạng trí nhớ ngắn hạn đặc biệt được xử lý ở thùy trước trán. Vùng này của vỏ não được dành để theo dõi các vùng thông tin đủ lâu để đưa chúng vào sử dụng trong một nhiệm vụ diễn ra sau khi thông tin đã được thu nhận. Bộ nhớ làm việc ở những vùng này được liên kết với các kho lưu trữ bộ nhớ dài hạn, do đó thông tin mới thu được có thể được tích hợp với thông tin đã lưu trữ và hoạt động.
Ví dụ, giả sử bạn đang cố băng qua một con đường đông đúc. Bạn nhìn sang bên trái và thấy rằng không có xe nào. Sau đó bạn nhìn sang bên phải và thấy rằng không có xe nào đi từ hướng đó. Bộ nhớ làm việc đã lưu trữ thông tin rằng con đường bên trái là rõ ràng, và do đó, sử dụng kiến thức được lưu trữ này về an toàn, bạn có thể kết luận rằng không có phương tiện giao thông nào từ hai hướng và việc băng qua đường là an toàn.
Ở những người bị tổn thương thùy não trước trán, nhiệm vụ này trở nên khó khăn hơn vì họ không thể nhớ lại liệu con đường có trống từ bên trái hay không khi họ đã nhìn qua bên phải. Trí nhớ làm việc cho phép chúng ta thu thập một loạt các dữ kiện từ trí nhớ ngắn hạn và dài hạn và kết nối chúng theo một trật tự hợp lý để giải quyết vấn đề hoặc lập kế hoạch hành động.
Bộ nhớ dài hạn là một vùng lưu trữ có khả năng chứa một lượng lớn thông tin. Hãy nghĩ xem con người cần ghi nhớ bao nhiêu thông tin trong nhiều thế kỷ trước, khi sách còn khan hiếm và phần lớn lịch sử được truyền miệng. Những người lang thang và hát rong lưu giữ những bài thơ và bản sử thi, được lưu trữ trong ngân hàng ký ức của họ, để có thể truy xuất theo ý muốn. Những nhà sư nhớ tất cả các kinh tạng truyền miệng…
Quá trình xử lý thông tin chuyển bộ nhớ ngắn hạn thành bộ nhớ dài hạn được gọi là hợp nhất. Quá trình hợp nhất có thể diễn ra trong nhiều khoảng thời gian khác nhau, từ vài giây đến vài phút. Thông tin đi qua nhiều cấp độ trung gian của bộ nhớ trong quá trình hợp nhất, và trong mỗi giai đoạn này, thông tin có thể được định vị và nhớ lại.
Khi các nhà khoa học nghiên cứu sự hợp nhất trí nhớ ngắn hạn thành trí nhớ dài hạn, họ phát hiện ra rằng quá trình này liên quan đến những thay đổi về khả năng hưng phấn của tế bào thần kinh hoặc các kết nối tiếp hợp trong các mạch liên quan đến học tập. Trong một số trường hợp, khớp thần kinh mới hình thành; ở những người khác, hiệu quả của sự dẫn truyền qua synapse bị thay đổi thông qua tác dụng lâu dài hoặc do trầm cảm lâu dài.
2. TRÍ NHỚ TRUNG HẠN
Các thí nghiệm trên động vật đã chứng minh rằng trí nhớ trung hạn do sự thay đổi nhất thời về hóa học hay vật lý hoặc cả hai ở các đầu synapse, các thay đổi này tồn tài vài phút tới vài tuần.
3. TRÍ NHỚ DÀI HẠN
Trí nhớ dài hạn được chia thành hai loại là bộ nhớ phản xạ và bộ nhớ khai báo; được củng cố và lưu trữ bằng cách sử dụng các con đường thần kinh khác nhau và không yêu cầu các quá trình có ý thức để tạo ra hoặc nhớ lại, liên quan đến hạch hạnh nhân và tiểu não.
Để thay đổi từ trí nhớ ngắn và trung hạn sang trí nhớ dài hạn thì phải có sự củng cố nghĩa là phải có sự thay đổi về hóa học, vật lý và cấu trúc ở synapse. Những nghiên cứu về tâm lý học đã chứng tỏ rằng sự lặp lại cùng một thông tin nhiều lần trong não, làm tăng tốc độ và khả năng biến đổi trí nhớ ngắn hạn thành dài hạn.
Não có khuynh hướng hay diễn tập lại thông tin mới tìm hiểu, đặc biệt đối với những thông tin gây sự chú ý, như thế sau một thời gian những đặc tính quan trọng của kinh nghiệm cảm giác ngày càng trở nên cố định trong bộ nhớ. Điều này giải thích vì sau 1 người có thể nhớ một số ít thông tin được nghiên cứu kỹ tốt hơn việc nhớ một số lượng lớn thông tin chỉ đọc qua loa, hay một người tỉnh táo thì cũng cố trí nhớ tốt hơn người mệt mõi về tinh thần.
Trong khi củng cố, những thông tin tương tự được lục ra từ kho trí nhớ để giúp xử lý thông tin mới. Thông tin cũ và mới được so sánh xem giống nhau và khác nhau như thế nào và những thông tin so sánh này được lưu trữ trong bộ nhớ. Cho nên phương pháp luyện trí nhớ khi chỉ đòi hỏi tồn trữ trí nhớ mà còn đòi hỏi khả năng đi tìm lại trí nhớ.
Bộ nhớ phản xạ còn được gọi là bộ nhớ thủ tục vì nó thường liên quan đến cách thực hiện mọi việc. Những ký ức phản xạ có thể được thu thập thông qua quá trình học tập liên kết hoặc không liên kết và những ký ức này được lưu trữ. Bộ nhớ phản xạ hay thói quen là trí nhớ vô thức dưới dạng học tập không liên kết và phản xạ có điều kiện.
Thông tin được lưu trữ trong bộ nhớ phản xạ được thu nhận từ từ thông qua sự lặp lại. Có sự thay đổi cấu trúc của synapse để thành lập dấu vết trí nhớ dài hạn thực sự, số lượng tế bào thần kinh và sự liên kết giửa chúng với nhau thay đổi rất lớn nếu học sớm.
Kỹ năng vận động cũng thuộc loại này, cũng như các quy trình và quy tắc. Ví dụ, bạn không cần phải suy nghĩ về việc đặt dấu chấm ở cuối mỗi câu hoặc cách chạy xe đạp.
Trí nhớ khai báo hay công bố, thừa nhận là hồi tưởng có ý thức, liên quan tới đánh giá và so sánh, thường được thực hiện bởi kinh nghiệm đơn thuần hoặc có liên kết tùy thuộc vào các diễn tiến trong phần khác của não và khác về mức độ phức tạp.
Trí nhớ mang tính khai báo đòi hỏi sự chú ý có ý thức để nhớ lại. Việc tạo ra nó nói chung phụ thuộc vào việc sử dụng các kỹ năng nhận thức cấp cao hơn như suy luận, so sánh và đánh giá. Các đường dẫn thần kinh liên quan đến loại trí nhớ này nằm trong thùy thái dương. Ký ức khai báo liên quan đến kiến thức về bản thân và thế giới xung quanh chúng ta có thể được báo cáo hoặc mô tả bằng lời nói. Đôi khi, thông tin có thể được chuyển từ bộ nhớ khai báo sang bộ nhớ phản xạ.
Ví dụ: khi tập ném bóng lúc còn nhỏ, phải chú ý nắm chặt quả bóng và phối hợp các cơ để ném bóng chính xác. Vào thời điểm học ném bóng, quá trình này nằm trong trí nhớ mang tính khai báo và đòi hỏi nỗ lực có ý thức khi cơ thể phân tích các chuyển động. Tuy nhiên, với sự lặp lại, cơ chế ném bóng được chuyển sang trí nhớ phản xạ: chúng trở thành một phản xạ có thể được thực hiện mà không cần suy nghĩ có ý thức. Việc chuyển giao đó cho phép sử dụng trí óc tỉnh táo của mình để phân tích đường đi và thời gian của đường chuyền trong khi cơ chế của đường chuyền trở nên tự động. Các vận động viên thường gọi tính tự động của các chuyển động cơ thể đã học được là trí nhớ cơ bắp.
4. VAI TRÒ CỦA TRÍ NHỚ
Trí nhớ là một thứ riêng lẻ, giúp xử lý thông tin dựa trên kinh nghiệm và nhận thức về thế giới. Bởi vì mỗi người có nhiều trải nghiệm khác nhau trong suốt cuộc đời của họ, nên không có hai người xử lý một phần thông tin nhất định theo cùng một cách. Nếu bạn hỏi một nhóm người về những gì đã xảy ra trong một sự kiện cụ thể, chẳng hạn như một buổi diễn thuyết hoặc một vụ tai nạn ô tô, sẽ không có hai mô tả nào giống hệt nhau. Mỗi người xử lý sự kiện theo nhận thức và kinh nghiệm của riêng mình. Xử lý kinh nghiệm là điều quan trọng cần nhớ khi nghiên cứu trong tình huống nhóm, vì không chắc tất cả các thành viên trong nhóm đều học hoặc nhớ lại thông tin theo cùng một cách.
Mất trí nhớ và không có khả năng xử lý và lưu trữ những ký ức mới là những tình trạng bệnh lý nghiêm trọng. Ở những người trẻ hơn, các vấn đề về trí nhớ thường liên quan đến chấn thương não do tai nạn. Ở người lớn tuổi, đột quỵ và chứng sa sút trí tuệ tiến triển là những nguyên nhân chính gây mất trí nhớ.
Mặc dù mất trí nhớ bệnh lý là một vấn đề đáng lo ngại, nhưng khả năng quên cũng rất quan trọng đối với sức khỏe tâm thần. Rối loạn căng thẳng sau chấn thương là một ví dụ về việc quên đi sẽ có lợi.
Các dạng mất trí nhớ:
- Nhớ được tất cả thông tin nhưng quên rất nhanh sau 20 – 30 phút, không thể nhớ gì dù được nhắc
- Không có khả năng chuyển thông tin vừa nhận thành trí nhớ dài hạn, chỉ nhớ những gì trước lúc mắc bệnh.
- Một số sự kiện sau khi mắc bệnh có thể nhớ nếu được lặp lại nhiều lờn với phản ứng cảm xúc.
Bệnh Alzheimer là một bệnh thoái hóa thần kinh tiến triển của suy giảm nhận thức, chiếm khoảng một nửa số trường hợp sa sút trí tuệ ở người cao tuổi. Bệnh Alzheimer được đặc trưng bởi tình trạng mất trí nhớ tiến triển đến mức người bệnh không nhận ra các thành viên trong gia đình. Theo thời gian, ngay cả tính cách cũng thay đổi, và trong giai đoạn cuối, các chức năng nhận thức khác bị lỗi khiến bệnh nhân không thể giao tiếp với người chăm sóc. Chẩn đoán bệnh Alzheimer thường được thực hiện thông qua việc bệnh nhân suy giảm hiệu suất trong các bài kiểm tra chức năng nhận thức. Các nhà khoa học đang nghiên cứu xem liệu các xét nghiệm tìm protein cụ thể trong dịch não tủy hoặc các nghiên cứu hình ảnh nâng cao có thể tiết lộ một người có mắc bệnh hay không, nhưng dữ liệu vẫn chưa thể kết luận ở giai đoạn này. Hiện tại, chẩn đoán xác định duy nhất của bệnh Alzheimer được đưa ra sau khi chết, khi mô não có thể được kiểm tra để tìm sự thoái hóa tế bào thần kinh. Nguyên nhân cơ bản của bệnh Alzheimer là không rõ ràng. Có một thành phần di truyền đã biết, và các lý thuyết khác liên quan tới quá trình oxy hóa và viêm mãn tính. Hiện tại vẫn chưa có phương pháp phòng ngừa hoặc điều trị đã được chứng minh, mặc dù các loại thuốc là chất chủ vận Acetylcholine hoặc chất ức chế Acetylcholinesterase làm chậm sự tiến triển của bệnh.